Kết quả Trận_Caen_(1944)

Phân tích

Về địa thế

Badsey viết rằng các ghi chép của trận chiến có ghi nhận ảnh hưởng của thời tiết và địa hình, nhưng sau đó lại đưa ra các đánh giá chi tiết đối với các chỉ huy quân Đồng Minh, ca ngợi Eisenhower về quyết định của ông trong ngày 6 tháng 6 dưới điều kiện thời tiến không ổn định. Montgomery thì lại bị đổ lỗi vì không hoàn thành được các mục tiêu của ngày D-Day như kiểu là do thời tiết không có liên quan gì cả, mặc dù thời tiết lại gây khó khăn làm lính dù bị phân tán khi đổ bộ và dồn các lực lượng đổ bộ về phía Đông của bãi biển. Việc bãi Sword hẹp cũng khiến cho Sư đoàn Bộ binh số 3 phải đổ bộ khoảng năm lữ đoàn, không khi ở cùng thời gian đó các Sư đoàn số 50 và Sư đoàn Canada số 3 đổ bộ 2 sư đoàn ở các bãi Gold và Juno. Mặc dù có lợi thế khi được đổ bộ ở một bãi rộng hơn nhiều, phải đến ngày D+7 thì Sư đoàn số 51 (Highland) mới có thể lên bờ được. Sự chậm trễ của quân tiếp viện quyết định nhiều đến đà tiến của quân Đồng Minh vào những vùng đất sâu hơn trong đất liền sau ngày đổ bộ D-Day. Quân Đồng Minh dự tính là trong vòng từ 12 đến 24 giờ là quân Đức có thể chặn đánh quân đổ bộ nhưng những thành công của quân Đồng Minh đã buộc các chỉ huy Đức phải ngừng tranh cãi liên quan đến việc bố trí các sư đoàn thiết giáp của các chỉ huy Đức cũng như khiến các quan điểm đổ lỗi cho một số thất bại của quân Đồng Minh trở nên phù hợp hơn trên bối cảnh thực tế trên chiến trường này. [122]

Cảng Cherbourg

Mulberry B với góc nhìn từ trên không (27 tháng 10 năm 1944)

Theo Badley, trong quá trình trận đánh diễn ra, quân Đồng Minh nhận thấy Cherbourg đóng vai trò là một cảng trung chuyển hàng hóa, và việc đổ bộ vào bờ biển Calvados thay vì bán đảo Cotentin là một sự thỏa hiệp; do việc lợi thế phòng thủ của người Đức do địa hình bán đảo Cotentin và tầm quan trọng của việc giành các vùng đất phía Nam Caen để xây dựng sân bay. Quân Đức nhận định rằng vai trò của quân Đồng Minh với Cherbourg là một Schwerpunkt (Cảng mục tiêu chính), cho dù quân Đức có thể thấy được cảng Mulberry đang được quân Đồng minh xây dựng kia. Luftwaffe được yêu cầu nỗ lực tối đa nhằm chống lại các tàu hàng đồng minh vào ngày 7 tháng 6, tuy vậy các hoạt động của Phi đội số 3 (Luftflotte 3) tỏ ra không hiệu quả. Không có một ghi chép nào còn sót lại cho thấy Cụm tập đoàn quân B cũng như Tập đoàn quân số 7 có đủ hiểu biết để nhận ra rằng việc Mulberries xây dựng đã khiến cho quân Đồng Minh không còn cần thiết phải giải phóng nhanh chóng Cherbourg nữa.[123] Ngày 14 tháng 6, Tập đoàn quân số 1 lại gây bất ngờ cho quân Đức một lần nữa, với việc tấn công qua bán đảo Cotentin nhưng đến ngày 21 sau khi đổ bộ thì mới chiếm Cherbourg (trễ hơn kế hoặc 5 ngày) với chỉ một nửa lượng hàng chưa được xếp dỡ từ tháng 7.[124] Badsey viết rằng việc bỏ qua tầm quan trọng của quân Đồng Minh với cảng Mulberry của quân Đức là vì nhấn mạnh đến hiệu quả trong việc tiếp vận vũ khí qua cảng cũng như lối tư duy truyền thống cho rằng cảng Cherbourg là cảng gần nhất với khu vực đổ bộ của quân Đồng Minh.[125]

Các sử gia viết về trận Caen

Terry Copp, 2003

Trong cuốn Fields of Fire: The Canadians in Normandy (2003), Terry Copp viết rằng màn trình diễn của người Canada trong trận chiến đã bị đánh giá thấp và mô tả sự tinh tế trong các hoạt động về chiến thuật cũng như chiến dịch của quân đội Canada. Copp cũng viết rằng mặc dù người Đức thể hiện sự kháng cự mãnh liệt, họ không hề có năng lực để tổ chức phòng thủ và và chiến thuật tổ chức phản kích ngay lập tức của quân Đức là quá chậm, khi hỏa lực của quân Đồng Minh đủ mạnh để những cuộc phản kích trở nên vô nghĩa. Người Đức được cho là thất bại trong việc ngặn chặn quân Đồng Minh, phần lớn là do sự ngặn chặn đến từ phía Đồng Minh; điều này được xem là một thành công lớn về mặt chiến thuật, chiến dịch cũng như chiến lược của quân đội Đồng Minh.[126] Copp cũng viết rằng liên quân Anh-Canada bị chỉ trích vì thiếu "học thuyết chiến đấu nhóm" bộ binh-tăng đã được sử dụng bởi quân Đức và điều này là chính xác; mọi hành động đều được cho phép và các chỉ huy thiết giáp được tự do lựa chọn chiến đấu theo phương pháp mà mình mong muốn, điều này hóa ra lại tạo lợi thế cho quân đội sau khi phát hiện rằng việc tái tổ chức và cơ cấu lại là việc làm cần thiết.[127]

Stephen Badsey, 2006

Trong một bài viết năm 2006, Badsey nhận thấy rằng các cuốn sách lịch sử "thông thường" viết về cuộc đổ bộ Normandy gồm có tài liệu liên quan đến các cuộc thảo luận cũng như các kế hoạch của quân Đồng Minh và của người Đức, sau đó là mô tả thông qua quá trình thực chiến của binh lính và cuối cùng thì, hoặc dừng lại ở việc mô tả các trận chiến tại các bãi, hoặc đánh giá về "màn trình diễn" của các tướng lĩnh Đồng Minh. Việc nối thông năm bãi đổ bộ chắc chắn là sẽ xảy ra và một số tác giả nói đến việc sau bao lâu nữa thì chiếm được Caen. Cuộc chiến được mô tả là gia tăng cường độ vào ngày 13 tháng 6 cùng với hành động đáng chú ý "nhưng được nhắc đi nhắc lại rất nhiều" thực hiện bởi Obersturmführer Michael Wittmann ở Villers-Bocage. Những câu chuyện như thế này thường là được thuật lại từ hồi ký và hồi ức của các sỹ quan cấp cao của quân Đồng Minh cũng như là người Đức hay sĩ quan cấp dưới và các nhà báo có cùng quan điểm tán thành họ. Badsey viết rằng một số có thể bịa các sự kiện không có thật, đó là việc Eisenhower, Montgomery và Bradley đưa ra những mệnh lệnh giống nhau, đó là thay vì đi chiếm các khu vục sâu trong đất liền thì quân Đồng Minh sẽ nối thông các bãi biển với nhau. Badsey nói rằng điều này là không chính xác và chỉ có thể có một chỉ huy ra lệnh như vậy và một vài ngày sau đó thì họ chờ những động thái tiếp theo có thể xảy ra. Cho đến khi việc thống nhất quân Đồng Minh hoàn tất vào ngày 12 tháng 6 thì các sự kiện tiếp sau đó được quyết định thông qua kế hoạch của quân Đồng Minh, cơ cấu và việc huấn luyện quân đội cho quá trình tấn công, cũng như thứ được gọi là "nền văn hóa quân sự và quốc gia", tức là các học thuyết quân sự theo định nghĩa hiện đại.[128]

John Buckley, 2014

Các hành động bạo lực

Khu vực tưởng niệm cho các nạn nhân là binh sĩ người Canada đã bị giết ở khu vườn của Tu viện Abbey.

Binh lính của Sư đoàn SS số 12 đã bắn chết 156 tù binh chiến tranh Canada trong trận Normandy. Sau trận Le Mesnil-Patry, lính của Sư đoàn SS số 12 đã bắt được 7 binh lính của người Canada lang thang trong vùng vành đai trắng của trận chiến, tất cả những người này đều đang mệt mỏi và đói khát. Họ sau đó được thẩm vấn bởi Trung đoàn SS-Pioniere số 12 tại một trụ sở đặc biệt ở làng Mouen, cách Le Mesnil-Patry 8 km (5 mi) về phía Đông Nam. Ngày 14 tháng 7, hai thành viên của Trung đoàn Hussars số 1 đã tiến đến tuyến của người Canada và chứng kiến cảnh một số tù binh Canada bị bắn từ sau lưng khi họ đầu hàng.Vào khoảng 10 giờ tối hôm đó, một số người được đưa đến ngoại ô một ngôi làng dưới sự canh gác của một số người lính có vũ trang. 4 tù nhân Canada bị bắn bởi một đội xử bắn trong khi những người còn lại bị bắn vào đầu ở cự ly gần. 20 tù binh Canada khác bị giết gần Villons-les-Buissons tại Tu viện Ardenne. Tu viện thì được chiếm nửa đêm ngày mùng 8 tháng 7 bởi Trung đoàn Bộ binh Regina và binh sĩ được khai quật và chân cát trong Nghĩa trang Chiến tranh Canada tại Bény-sur-Mer. Sau chiến tranh, sĩ quan SS-Waffen là Kurt Meyer bị đem ra tòa và kết án tử hình vì những hành vi không phù hợp với dân thường và xử tử tù binh. Bản án sau đó được giảm nhẹ xuống tù chung thân. Cuối cùng, vị sĩ quan này được thả ra sau 8 năm ngồi tù.

Về việc Đồng Minh ném bom Caen

Liên quan